Tham quan Thủ đô có khi nào bạn thắc mắc: Hà Nội có bao nhiêu cửa ô?
Thăng Long - Hà Nội trong quá khứ từng có rất nhiều Cửa ô - không phải 5 Cửa ô như hiện tại mà nhiều người biết. Vậy xưa kia, Thủ đô có bao nhiêu cửa ô?
Trong ca khúc "Tiến về Hà Nội", nhạc sĩ Văn Cao có những lời ca: "Năm cửa ô đón mừng/Khi đoàn quân tiến về...". Sức lan tỏa của ca khúc đã trải dài, rộng khắp đất nước, thế nên không nghĩ người nghĩ: Hà Nội chỉ có 5 cửa ô. Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu lịch sử, Hà Nội xưa có nhiều hơn 5 cửa ô.
Cửa ô của Hà Nội là gì?
Thành Thăng Long - Hà Nội xưa được xây dựng theo kiểu “tam trùng thành quách” (nghĩa là có ba vòng thành bao bọc lẫn nhau). Vòng thành ngoài cùng rộng lớn nhất được gọi là Đại La thành. Đây vốn là một lũy đất mượn thế theo dòng chảy của các con sông (sông Hồng, sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu) mà các triều đại phong kiến Việt Nam dựng lên với chức năng vừa chống ngập lụt vừa làm chức năng quân sự.

Tuy nhiên, đến đầu thời kỳ nhà Mạc (do bối cảnh lịch sử) vòng thành Đại La được xây dựng một cách kiên cố hơn với thành đất, lũy tre và hào nước bảo vệ. Theo ghi chép, năm 1749, chúa Trịnh Doanh đã cho phép đắp một tòa thành đất bao bọc khu hoàng thành Thăng Long, xung quanh bên ngoài có hào nước sâu cắm chông bảo vệ. Trên thân thành đất mở ra 8 cửa để cho người dân qua lại. Kiến trúc của mỗi cửa được thiết kế gồm một cửa chính và hai cửa phụ hai bên, trên cửa có vọng lâu canh gác. Tất cả 8 cửa đều có kích thước, hình dạng giống nhau.
Từ "cửa ô" trong tiếng Việt được dịch từ Ô môn (塢門) trong tiếng Hán. Từ "môn' có nghĩa là "cửa". Từ "ô" được cấu tạo bởi hai bộ phận: bộ phận chỉ ý (là bộ thổ) và bộ phận chỉ âm (ô).

Theo các từ điển Khang Hi tự điển, Từ nguyên, Từ hải, Hán ngữ từ điển đều giải thích ý nghĩa của từ "ô", còn âm đọc là "ổ" là: khu đất trũng, xung quanh đắp cao tạo thành vật che chắn; là nơi cư trú của các loại vật (như ổ gà, ổ chó); là lũy đất bao vây làng xóm để ngăn chặn sự xâm phạm từ bên ngoài vào (thôn ổ, trúc ổ). Từ “ô” còn có ý nghĩa là cửa giao tiếp từ bên trong với bên ngoài.
Tên gọi các cửa ô căn cứ vào tên các thôn xã có cửa ô đặt vào. Mỗi cửa ô lại có đặc trưng riêng biệt nên cạnh đó còn có tên gọi dân gian như Cửa ô Thịnh Quang, còn gọi là ô Cầu Dừa.

Thời xưa, đây là các cửa ô vào kinh thành, ban đêm có tuần phiên canh gác. Một điểm đặc biệt là phần lớn các cửa ô đều thông ra sông Hồng và sông Tô Lịch. Phía tây có 2 cửa, phía nam có 3 cửa ra sông Tô Lịch; lối ra sông Hồng có 11 cửa. Lý do là bởi, vào thời đó, đường giao thông nối Thăng Long với các vùng khác chủ yếu là đường sông. Dọc sông Hồng có nhiều bến, phố xá đông đúc, nhiều hiệu buôn lớn của người Việt và người nước ngoài tập trung ở đây.
Không phải 5, Thăng Long - Hà Nội từng có 21 cửa ô
Dưới thời nhà Nguyễn, Thăng Long - Hà Nội nhiều lần được điều chỉnh uy hoạch.Theo "Bắc thành dư địa chí" soạn vào đầu thế kỷ 19, Hà Nội có 21 cửa ô. Khi nhà Nguyễn hạ cấp kinh thành Thăng Long xuống chỉ còn là Bắc thành thuộc tỉnh Hà Nội thì số cửa ô chỉ còn 16. Trong bản đồ Tòa thành Hà Nội 1831 có ghi vị trí và tên của 16 cửa ô này.

Ngoài ra, trên tòa thành đất bao bọc vòng ngoài còn xác định được 2 cửa ô là Trung Hiền (ngã tư Bạch Mai - Đại La - Trương Định - Minh Khai) và cửa ô Tây Dương (trước cây cầu Giấy bắc qua sông Tô). Đến năm 1866, bản đồ “Tỉnh thành Hà Nội” vẽ đời vua Tự Đức chỉ còn 15 cửa ô và không còn cửa ô Nhân Hòa.
Sang năm 1873, số lượng 15 cửa ô vẫn được giữ nguyên. Các cửa ô được đánh số từ 1 đến 15 và được thể hiện bằng hai ngôn ngữ trên bản đồ. Năm 1888, Pháp ép vua Đồng Khánh cắt đất lập khu nhượng địa và gọi là thành phố Hà Nội. Như vậy ngoài tỉnh Hà Nội lập thời Minh Mạng còn có thành phố Hà Nội thuộc Pháp.

Địa giới thành phố Hà Nội hẹp hơn địa giới kinh thành Thăng Long cũ, bắt đầu từ dốc Yên Hoa (nay là Yên Phụ) theo chiều kim đồng hồ xuống Cơ Xá Nam (cảng Hà Nội hiện nay), vòng ra cửa ô Thanh Bảo (khu vực bến xe Kim Mã) rồi vòng trở lại dốc Yên Hoa.
Vào năm 1889, chính quyền thực dân Pháp thành lập khu ngoại giao thành Hà Nội từ Yên Phụ vòng ra Nhật Tân chạy ra Cầu Giấy theo sông Tô Lịch đến khu vực Lương Yên ngày nay. Từ khi lập khu ngoại thành, chính quyền Pháp cũng lập thêm đồn chốt tại chợ Bưởi, Cầu Giấy, đầu phố Yên Hoa, ngã tư Vọng, đầu phố Bạch Mai, và chỉ cho những người có thẻ ra vào.

Theo Trung tâm Lưu trữ quốc gia, các cửa ô của Thăng Long - Hà Nội đến nay gần như không còn dấu tích, chỉ còn lại duy nhất ô Quan Chưởng (tên chữ Hán là “Đông Hà môn”). Cổng được xây dựng vào năm 1749 để phòng thủ kinh thành mặt sông Hồng. Cổng có một cửa chính, trên có tháp canh và hai cửa phụ. Trên tường cửa chính gắn tấm bia đề năm Tự Đức thứ 34 (1882) cấm lính gác đòi tiền người qua lại.
Những cửa ô xưa như ô Đông Mác, Yên Phụ, Cầu Dền, Đồng Lâm, Chợ Dừa, Cầu Giấy... nay đã trở thành các nút giao thông hoặc những khu vực quan trọng của Thủ đô.
Xem thêm: Giải mã Hoàng thành Thăng Long: Từ kinh đô Đại La đến Thủ đô Hà Nội
Tin liên quan
Cuốn Đại Việt sử ký toàn thư miêu tả, lễ hội chùa Láng là "hội vui nhất vùng" (vùng Tây Thăng Long), được tổ chức vào dịp mùng 7 tháng 3, thu hút sự tham gia của đông đảo nhân dân từ 9 làng lân cận...
Có thể bạn chưa biết, khách sạn 124 tuổi - Metropole Hà Nội chính là nơi ra đời món cà phê trứng biểu tượng của Việt Nam. Cho đến bây giờ, khách sạn này vẫn giữ được nguyên công thức pha chế từ năm 1946.
Hòa chung không khí kỷ niệm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, hàng loạt di tích, bảo tàng ở Hà Nội mở cửa trưng bày, tái hiện ký ức hào hùng của dân tộc.
Bài mới

Quảng Trị – nơi mà mỗi tấc đất đều thấm đẫm máu và nước mắt của cha ông trong hai cuộc kháng chiến, là điểm đến không thể bỏ qua đối với những ai yêu mến lịch sử và muốn hiểu sâu hơn về bản lĩnh dân tộc Việt Nam. Hành trình 2 ngày 1 đêm dưới đây sẽ dẫn bạn đi qua những dấu mốc quan trọng nhất của mảnh đất anh hùng này.